THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 20/2018/AL VỀ XÁC LẬP QUAN HỆ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG SAU KHI HẾT THỜI GIAN THỬ VIỆC TRONG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN HIỆN NAY
- Tác giả:
- Hồ Đức Hiệp,
- Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP.HCM.
- Lê Hoàng Nam; Nguyễn Đức Bảo Duy & Nguyễn Ngọc Minh Thuận
- Sinh viên lớp Luật 2005LHOK, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP.HCM.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam đã tham gia ký kết và thực thi 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực, là thành viên thứ 150 của WTO (Tổ chức Thương mại thế giới), và đến hiện nay, để phát triển kinh tế đất nước, Việt Nam đã hội nhập và tham gia ngày càng sâu rộng vào “sân chơi” quốc tế cùng với các hiệp ước song phương, đa phương đã đem lại những giá trị lớn về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng đẩy mạnh thực hiện công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay và vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và cực kỳ quan trọng. Bên cạnh việc cải cách và xây dựng hệ thống pháp luật Nhà nước thì không chỉ đòi hỏi cải cách quản lý hành chính nhà nước và xã hội bằng pháp luật mà còn đòi hỏi phải áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
Thực tế cho thấy, việc xây dựng văn bản pháp luật cẩn thận và kỹ lưỡng đến đâu thì cũng không thể dự đoán được hết những tình huống sẽ xảy ra trong tương lai. Hơn nữa, ngày càng có nhiều hành vi vi phạm pháp luật tinh vi, nhiều tình huống mà các nhà làm luật không lường trước được. Khi xuất hiện những hành vi vi phạm pháp luật hay tình huống mới thì việc cần phải làm là sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật để kịp thời điều chỉnh. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi phải qua trình tự, thủ tục theo đúng quy định của pháp luật nên sẽ mất khoảng thời gian nhất định, vì thế vẫn còn tình trạng thiếu quy định của pháp luật để áp dụng vào trong xét xử tại Tòa án. Do vậy, Án lệ là nguồn bổ sung giúp cho quy định của pháp luật trở nên đầy đủ, đồng bộ và gắn liền với thực tiễn hơn bao giờ hết. Hơn nữa, khi xây dựng Án lệ, Tòa án góp phần vào việc hoàn thiện và phát triển luật trong tương lai. Ở mức độ nhất định, Án lệ vẫn được coi là nguồn luật và thực tiễn cho thấy Án lệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật. Việc nghiên cứu về “Án lệ” là một trong những ưu tiên quan trọng của ngành tư pháp ở nước ta hiện nay và rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Việc tham gia hội nhập ký kết các hiệp định, hiệp ước song phương, đa phương của Việt Nam đã đem lại rất nhiều lợi ích kinh tế trong đó có giải quyết các bài toán về lao động hay nói cách khác là tạo công ăn việc làm cho người lao động và góp nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập tất yếu sẽ xảy ra các vấn đề về quan hệ tranh chấp hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động. Bởi vì, khi hội nhập thì nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực mới được tiếp cận sẽ kéo theo việc người lao động và người sử dụng lao động sẽ tìm đến với nhau để giao kết hợp đồng lao động, thỏa mãn nhu cầu cho nhau. Thế nhưng, trong tiếng nói chung sẽ có những mâu thuẫn xung đột vì lợi ích của mỗi bên và điều đó nảy sinh ra vấn đề tranh chấp hợp đồng lao động giữa hai bên. Tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp mâu thuẫn trong lao động khi mà một trong hai bên không đồng ý hòa giải tại cơ sở và thì sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp này. Hợp đồng cũng là một trong những vấn đề thường xuyên xảy ra tranh chấp hiện nay. Vì, trước khi giao kết hợp đồng lao động nhiều người sử dụng lao động và người lao động lựa chọn giao kết hợp đồng thử việc, hoặc thỏa thuận thêm nội dung thử việc vào hợp đồng lao động, tuy nhiên trong một số trường hợp, thỏa thuận của các bên không rõ ràng sẽ dẫn đến việc xảy ra tranh chấp giữa các bên và khi xảy ra tranh chấp thì một hai bên sẽ thực hiện thủ tục khởi kiện tại Tòa án mà không cần phải qua thủ tục hòa giải tại cơ sở.
Thử việc, về bản chất là sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên. Đây là quá trình các bên làm thử trong một thời gian nhất định nhằm đánh giá năng lực, trình độ, ý thức, điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động… trước khi quyết định ký kết hợp đồng lao động chính thức. Khi tham gia vào quan hệ lao động này thì đối tượng người lao động hay người thử việc là người bị yếu thế trong vấn đề ký kết hợp đồng lao động – đối tượng dễ bị sa thải. Theo nguyên tắc của các nhà làm luật, luật được xây dựng nhằm bảo vệ người yếu thế. Bộ Luật lao động năm 2019 (Luật hiện hành) đã ra đời để thay thế Bộ luật lao động 2012 là một tiến bộ của xã hội trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng với thế giới ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, Án lệ được công bố tại trang thông tin điện tử về Án lệ của Tòa án nhân dân tối cao thì Việt Nam có 63 Án lệ trong đó lĩnh vực lao động là 01 Án lệ (Án lệ số 20/2018/AL về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc). Bộ chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: “Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm” để phù hợp và đồng thời cũng là tiêu chí trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Như vậy, việc áp dụng Án lệ nói chung và áp dụng Án lệ số 20 nói riêng vào hoạt động xét xử tại Tòa án trong vấn đề giải quyết tranh chấp lao động là yêu cầu tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhưng việc áp dụng Án lệ vào trong hoạt động xét xử vụ án của Tòa án liệu có đem lại hiệu quả hay không? Trên thực tế, khi tìm hiểu về vấn đề này, thì cách thức áp dụng Án lệ số 20/2018/AL về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc để giải quyết tranh chấp về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc vẫn còn nhiều bất cập cần được nghiên cứu. Từ đó, có thể đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN HIỆN NAY
- Cơ sở lý luận về áp dụng Án lệ trong hoạt động xét xử tại Tòa án
Khái quát chung về Án lệ:
Khái niệm “Án lệ” được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia ngày nay nhưng ở từng quốc gia, hoặc tùy thuộc vào các truyền thống pháp luật khác nhau, hoặc cùng một quốc gia nhưng ở các giai đoạn lịch sử khác nhau thì khái niệm này cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Như vậy, để hiểu rõ hơn khái niệm Án lệ mà nhóm tác giả đưa ra giải thích như sau:
Thứ nhất, các loại nguồn luật ở Việt Nam: Trong đời sống pháp lí, khi thực hiện hành vi (chẳng hạn như kí kết hợp đồng, khiếu nại, tố cáo, giải quyết vụ việc theo thẩm quyền…), các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thầm quyền cũng như các cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải dựa trên những căn cứ pháp lí nhất định. Những yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp các căn cứ pháp lí cho hoạt động của các chủ thể được coi là nguồn của pháp luật. Có thể quan niệm: Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tổ chứa đựng hoặc cung cẩp căn cứ pháp lí đế các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói cách khác, nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí cho hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thấm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
Phân loại như sau: (1) Văn bản quy phạm pháp luật: Việt Nam chịu sự ảnh hưởng bởi truyền thống pháp lý châu Âu lục địa, Việt Nam rất chú trọng hình thức VBQPPL. Có thể khẳng định “văn bản quy phạm pháp luật là nguồn phổ biến nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng điều chỉnh đa phần các quan hệ xã hội”. Tuy nhiên, VBQPPL có nhược điểm là không sát với thực tế, kết hợp với những khó khăn do việc sử dụng ngôn ngữ mang lại, khiến cho việc áp dụng VBQPPL gặp một số hạn chế nhất định. Vì vậy trên thực tế, bên cạnh loại nguồn phổ biến là VBQPPL, ở Việt Nam cũng thừa nhận tập quán pháp như là một trong những loại nguồn cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, trong xu thế chung của pháp luật các nước trên thế giới, Việt Nam bắt đầu áp dụng tiền lệ pháp nhằm khắc phục nhược điểm của hình thức VBQPPL; (2) Tập quán pháp: Ở Việt Nam, theo phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, tập quán được hiểu là những cách ứng xử, thói quen ứng xử, hay những quy tắc xử sự chung được hình thành tự phát trong các cộng đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực hiện bằng đặc tính của thói quen, tính thuyết phục, dư luận xã hội và một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tập quán pháp được hiểu là “hình thức pháp luật có nguồn gốc từ tập quán trên cơ sở cho phép áp dụng tập quán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể áp dụng pháp luật vận dụng tập quán cụ thể làm căn cứ để giải quyết các vụ việc”. Tập quán pháp có ưu điểm là gần gũi, quen thuộc với nhân dân. Do Nhà nước thừa nhận ý chí của nhân dân thành pháp luật nên tập quán pháp thể hiện tính dân chủ cao. Mặt khác, do tập quán là thói quen của chung một cộng đồng dân cư nên vận dụng tập quán sẽ ảnh hưởng đến tính thống nhất của pháp luật, đi ngược lại với mục đích của Án lệ là “vụ việc giống nhau phải được giải quyết giống nhau”. Sự khác biệt này được cho là cần thiết vì các cộng đồng dân cư có trình độ phát triển kinh tế chênh lệch nhau, đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ở phương diện này, việc sử dụng hợp lý tập quán pháp như nguồn pháp luật trong đồng bào dân tộc thiểu số còn góp phần bảo vệ quyền con người; (3) Tiền lệ pháp/Án lệ: Án lệ của Việt Nam cũng không phải là nguồn luật giống như các quốc gia thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa. Trên thực tế, Án lệ của Việt Nam không phải là một dạng VBQPPL theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam nên về mặt hình thức nó không phải là một nguồn luật. Mặt khác, Án lệ của Việt Nam được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Nhưng Luật Ban hành VBQPPL lại quy định Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là một trong các VBQPPL. Vì vậy, mặc dù Án lệ của Việt Nam không phải là một nguồn luật và về mặt hình thức, cũng không phải là VBQPPL nhưng nó được ban hành bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC nên về mặt thực chất (nội dung) có thể có hiệu lực pháp lý như là VBQPPL. Trên thực tế, án lệ của Việt Nam có hiệu lực ràng buộc không chỉ đối với tòa án cấp dưới trong vụ việc đó mà có hiệu lực ràng buộc đối với toàn bộ Tòa án và cũng được quy định cả thủ tục bãi bỏ như pháp luật nên nhìn vào khía cạnh này thì án lệ của Việt Nam có tính chất của VBQPPL.
Như vậy, Việt Nam hiện nay, các quy tắc pháp luật được thể hiện ra bên ngoài thông qua VBQPPL, tiền lệ pháp và tập quán pháp. Trong đó, VBQPPL là nguồn luật cơ bản nhất, tiếp đó là tập quán pháp, được thừa nhận và áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự khi VBQPPL không quy định. Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật vừa mới thừa nhận với các án lệ đã được Chánh án TANDTC cao công bố. Do đó, mức độ phổ biến và tác dụng tích cực của Án lệ vẫn chưa có đủ thời gian để kiểm chứng và đánh giá.
Thứ hai, về thuật ngữ Án lệ (case law) và Tiền lệ pháp (precedent): Khi nghiên cứu tài liệu khoa học pháp lý ở Việt Nam, nhóm bắt gặp các thuật ngữ (1)Án lệ;(2) Tiền lệ pháp. Vậy khi chuyển sang tiếng Anh sẽ như thế nào?
(1) Án lệ: Trong tiếng Anh pháp lý, thuật ngữ “Case law” (Án lệ) được sử dụng khá phổ biến trong các tài liệu khoa học pháp lý ở các nước common law. Case law còn được gọi là “judge-made law” (luật do thẩm phán tạo ra). Ngoài ra, trong các tài liệu khoa học pháp lý ở các nước common law, người ta còn sử dụng thuật ngữ “common law” có nghĩa tương đương với “case law”. Như vậy, cần chú ý và phân biệt “common law” với một nghĩa là một truyền thống pháp luật mà “Án lệ” là 1 nguồn cơ bản (nguồn luật); với một nghĩa là “Án lệ”.
Ngoài ra, Trong tiếng Pháp thì thuật ngữ “Án lệ” được gọi là “jurisprudence” được hiểu là nguyên tắc giải thích và áp dụng luật pháp của các TA về một vấn đề pháp lý.
(2) Tiền lệ pháp: Trong tiếng Anh, thuật ngữ “judicial precedent” hoặc “precedent” là bản án, quyết định trước của Tòa án được sử dụng để giải quyết một vụ việc tương tự sau này. Khi dịch sang tiếng Việt là “tiền lệ” có nghĩa là dựa theo cái trước để làm theo mà thành lệ. Dựa theo thuật ngữ này, thì Án lệ là một loại tiền lệ. Bởi Án lệ là các giải pháp pháp lý trong bản án của Tòa án trước tạo ra được Tòa án sau áp dụng giải quyết trong các vụ việc tương tự. Vì vậy, chính xác hơn thuật ngữ Án lệ hay trong tiếng Anh pháp lý được diễn đạt bằng cụm từ “judicial precedent” – “tiền lệ tư pháp”.
Như vậy, thuật ngữ “Án lệ” trong tiếng Pháp và tiếng việt có cùng chung một quan điểm về khái niệm Án lệ và tiền lệ pháp. Nhưng trong tiếng Anh, dù là Anh-Anh hay Anh-Mỹ đều có sự phân biệt thuật ngữ “Án lệ” và “tiền lệ pháp”.
Thứ ba, về khái niệm Án lệ:
(1) Theo các tài liệu từ nước ngoài: Theo từ điển Black’s Law, Án lệ (precedent) có hai nghĩa: “Một là sự làm luật bởi Tòa án trong việc nhận thức và áp dụng những quy định mới trong khi thi hành công lý. Hai là một vụ việc đã được quyết định mà cung cấp cơ sở để quyết định cho những vụ việc sau liên quan đến các sự kiện hoặc vấn đề tương tư (tạm dịch)”. Như vậy, từ điển Black’s Law Dictionary đã định nghĩa Án lệ là quy tắc được xác lập được xác lập lần đầu tiên bởi một Tòa án cho một loại vụ án cụ thể và sau đó được áp dụng trong các trường hợp tương tự. Có thể thấy, từ điển Black’s Law đã đưa ra hình thức bên ngoài của pháp luật (nguồn luật) không được thể hiện dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật mà dưới dạng Án lệ gọi là tiền lệ pháp và khi nói đến Án lệ là nói đến mối quan hệ giữa quá khứ (Tòa án tạo ra Án lệ) và tương lai (Tòa án áp dụng Án lệ). Khi một Tòa án sử dụng một quyết định của Tòa án trước (Án lệ) để giải quyết vụ việc tương tự là nhìn vào quá khứ. Ngược lại, các Tòa án trước đưa ra quyết định để giải quyết vụ việc và quyết định này được Tòa án sau sử dụng để giải quyết vụ tương tự, có nghĩa là Tòa án trước không chỉ đưa ra giải pháp để giải quyết vụ việc hiện tại mà nó còn là giải pháp trong tương lai cho các vụ việc tương tự; Tiếp đến là theo từ điển Oxford cho rằng, “tiền lệ” là những quyết định, những bản án… được lấy làm quy định mẫu cho các vụ việc tương tự trong tương lai. Trong khi đó, Case-Law được hiểu là pháp luật được hình thành từ các bản án hoặc quyết định của thẩm phán trong các vụ án trước.
(2) Tài liệu trong nước (Việt Nam). Trước khi trình bày khái niệm nhóm sẽ đưa ra quá trình hình thành “Án lệ” ở Việt Nam như sau: Khái niệm Án lệ ở Việt Nam có từ trước năm 1960, từ “Án lệ” đã tồn tại và được sử dụng trong các văn bản pháp luật chính thức công khai trên các tạp chí chuyên ngành, đường lối xét xử của Tòa án về những vụ án cùng loại được tập hợp, phân tích, bình luận. Tuy nhiên, từ năm 1960, khái niệm “Án lệ” không thấy được sử dụng, thay vào đó thuật ngữ “luật lệ” được sử dụng nhiều. Từ sau năm 1975 đến trước năm 2006, khái niệm “Án lệ” hầu như không được sử dụng một cách chính thức mặc dù trong các sách, báo pháp lý khái niệm “Án lệ” vẫn được bàn luận, nhưng chỉ mang tính chất nghiên cứu học thuật. Khi tìm hiểu khái niệm Án lệ trong lịch sử pháp luật Việt Nam, người ta hầu như không thấy từ Án lệ được sử dụng trong lịch sử pháp luật thời kỳ phong kiến. Có thể điển qua một số nét lịch sử sau đây của vấn đề Án lệ ở Việt Nam. Vào thời kỳ thực dân pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam từ năm 1858 đến 1945, Án lệ chủ yếu được sử dụng trong đào tạo, giảng dạy luật ở các trường luật tại Miền nam Việt Nam (Đông Dương). Án lệ đã được áp dụng bởi hệ thống Tòa án của thực dân Pháp tại Việt Nam. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ “Án lệ” đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật, trên các tập san Luật học của chế độ ta, thể hiện như sau: Tại Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 442/TTg ngày 19-1-1955[1] đã nêu: “… Tới nay, các Tòa án căn cứ vào những văn bản nói trên và chính sách trừng trị của Chính phủ mà xét xử đem lại kết quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xử về một số loại tội phạm đã được trở thành Án lệ. Tuy nhiên, Án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương, do đó đường lối xét xử không được thống nhất. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm thông thường…”; Tại Thông tư số 19-VHS ngày 30-6-1955 của Bộ Tư pháp[2] có nêu: “Nếu chỉ có luật hình sự cũ, chưa có sắc lệnh mới, mà xét thấy cần trừng phạt, thì cũng không viện dẫn luật hình sự cũ, Tòa án sẽ căn cứ vào đường lối truy tố xét xử, vào các yêu cầu chung và cụ thể đối với từng sự việc, vào án lệ”; Tại Chỉ thị số 772-TATC, ngày 10-7-1959 của Tòa án nhân dân Tối cao[3] đã nêu: “Để xét xử các vụ án hình sự và dân sự, cần áp dụng luật pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ban hành từ trước đến giờ, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, án lệ của các Tòa án, của Tòa án Tối cao”; Tại Thông tư số 92-TC của liên Ngành Bộ Tư pháp, TANDTC[4] ngày 11-11-1959 chỉ rõ: “TAND phúc thẩm chỉ đạo công việc xét xử của các TAND cấp dưới thông qua án lệ của mình”; Tại Tập san Tư pháp (nay là Tạp chí TAND) số 3 năm 1964, trong mục “Thuật ngữ luật học” có giải thích: “Án lệ là một danh từ cũ đã được dùng từ thời Pháp thuộc. Án lệ là những qui tắc do các Tòa án trong khi vận dụng pháp luật để xét xử các vụ án cụ thể, đã hình thành dần dần bằng cách hiểu và có thái độ giải quyết giống nhau một số điểm pháp lý, áp dụng luật một cách giống nhau trong nhiều vụ án”; Khái niệm Án lệ tiếp tục được sử dụng chính thức tại Nghị quyết số 49-NQ/TW[5] như sau: “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Từ việc sử dụng khái niệm “Án lệ” như đã nêu trên, có thể thấy: (1) Trước năm 1960, từ Án lệ đã tồn tại và được sử dụng trong các văn bản pháp lý chính thức, công khai trên các tạp chí chuyên ngành. Đường lối xét xử của Tòa án về những vụ việc cùng loại được tập hợp, phân tích, bình luận. Tuy nhiên, (2) Từ sau năm 1960, khái niệm Án lệ không thấy được sử dụng, thay vào đó là thuật ngữ “luật lệ” được sử dụng nhiều. (3). Từ sau năm 1975 đến trước năm 2006, khái niệm Án lệ hầu như không được sử dụng chính thức trong các sách, báo pháp lý mà chỉ được bàn luận mang tính chất nghiên cứu học thuật. Như vậy, Án lệ trước năm 1975 đã được thừa nhận ở Việt Nam nhưng từ sau năm 1975 đến nay chưa được thừa nhận chính thức trong hệ thống pháp luật Việt Nam và điều đó không hề làm giảm vai trò kiến tạo pháp luật trong quá trình xét xử (có thể thấy, Khoản 3, Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”, điều này đã đặt nền móng vững chắc cho việc coi Án lệ là nguồn của pháp luật. Dựa vào nền tảng của quy định Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành thì những quy định về Án lệ mới thực sự trở thành một hình thức của pháp luật, đóng vai trò quan trọng và có tính áp dụng cao.
Ở Việt Nam hiện nay, định nghĩa chính thức về Án lệ được nêu cụ thể tại khoản 2, Mục I, Điều 1 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC[6] như sau: “Án lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và của Tòa án chuyên trách TANDTC được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua trở thành Án lệ, có giá trị tham khảo đối với các Thẩm phán khi giải quyết các vụ việc cụ thể”. Theo Điều 1 Nghị quyết số 03/2015[7] thì Án lệ được định nghĩa là: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Qua cách tiếp cận ở Việt Nam có thể thấy, Án lệ được xác định không phải toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án mà là những nội dung trong bản án, quyết định của Tòa án chứa đựng những lập luận để giải thích những vấn đề, sự kiện pháp lý, chỉ ra nguyên tắc hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng pháp luật cần áp dụng hoặc là lý do để Tòa án đưa ra phán quyết. Như vậy, khái niệm Án lệ ở Việt Nam được hiểu là những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, có tính khuôn mẫu được lựa chọn thành án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong hoạt động xét xử.
2) Nguyên tắc áp dụng Án lệ trong xét xử tại toà án hiện nay
Nguyên tắc 1, Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố Án lệ của Chánh án TANDTC.
Nguyên tắc 2, Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng Án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng Án lệ thì số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng Án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong Án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong Án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án; trường hợp không áp dụng Án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án.
Nguyên tắc 3, Trường hợp do có sự thay đổi của Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ mà Án lệ không còn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng Án lệ.
Nguyên tắc 4, Trường hợp do chuyển biến tình hình mà Án lệ không còn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng Án lệ, đồng thời phải kiến nghị ngay với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Đánh giá: Việc Án lệ được áp dụng trong xét xử sẽ góp phần tích cực trong việc đảm bảo xét xử công bằng các vụ án có tính chất tương tự nhau, rà soát những sai phạm trong xét xử các vụ án và đem lại sự công bằng cho xã hội. Theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP quy định việc áp dụng Án lệ là có tính bắt buộc với các sự kiện đã được lựa chọn làm Án lệ. Tuy nhiên, việc viện dẫn Án lệ tại các Tòa án vẫn chưa đảm bảo các nguyên tắc quy định. (Ví dụ, trường hợp có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án xét xử lại không áp dụng Án lệ số 20/2018/AL tại bản án số 39/2018/LĐ-ST).
3) Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng Án lệ
Án lệ được thực hiện thông qua quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, như sau:
Thứ nhất, đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành Án lệ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn Án lệ cho TANDTC để xem xét, phát triển thành Án lệ.
Thứ hai, lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành Án lệ. Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành Án lệ, nội dung đề xuất là Án lệ, dự thảo Án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để các Tòa án, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm tham gia ý kiến trong thời hạn 30 ngày. Đối với các trường hợp bản án, quyết định do Thẩm phán TANDTC, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao đề xuất hoặc được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì việc lấy ý kiến là không bắt buộc.
Thứ ba, thành lập Hội đồng tư vấn Án lệ. Hội đồng tư vấn Án lệ do Chánh án TANDTC thành lập gồm có ít nhất 09 thành viên. Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, các thành viên khác là đại diện Bộ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia về pháp luật và 01 đại diện lãnh đạo Vụ pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC (đồng thời là Thư ký Hội đồng). Trường hợp tư vấn Án lệ về hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn Án lệ phải có đại diện Cơ quan điều tra của Bộ công an, Bộ quốc phòng hoặc Viện kiểm sát nhân dân Tối cao. Việc thành lập để thảo luận, cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành Án lệ, nội dung đề xuất là Án lệ, dự thảo Án lệ.
Thứ tư, lấy ý kiến Hội đồng tư vấn Án lệ. Theo quy định tại khoản 2, Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Hội đồng tư vấn Án lệ có trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành Án lệ, nội dung đề xuất là Án lệ, dự thảo Án lệ.
Thứ năm, thông qua Án lệ. Sau khi các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành Án lệ được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4 và Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Chánh án TANDTC tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán TANDTC để thảo luận, biểu quyết thông qua Án lệ. Phiên họp lựa chọn, thông qua Án lệ của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất hai phần ba (2/3) tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành. Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua Án lệ của Hội đồng Thẩm phán và là căn cứ để Chánh án TANDTC công bố Án lệ.
Thứ sáu, công bố Án lệ. Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc thông qua Án lệ, Chánh án TANDTC công bố Án lệ. Nội dung của Án lệ được công bố bao gồm: Số, tên Án lệ; số tên bản án, quyết định của Tòa án có nội dung được phát triển thành Án lệ; tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý của Án lệ; quy định của pháp luật có liên quan đến Án lệ; từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong Án lệ; các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Tòa án có liên quan đến Án lệ; nội dung của Án lệ.
Ở Việt Nam, bản án, quyết định của bất kỳ Toà án nào cũng có thể trở thành án lệ khi nó thoả mãn được tất cả những tiêu chí cũng như được lựa chọn, công bố theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Sự phát triển án lệ đóng vai trò bổ trợ chứ không xâm phạm hoặc thay thế văn bản quy phạm pháp luật. Chánh án TANDTC ban hành quyết định công bố án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua.
4) Thực tiễn án lệ được áp dụng ở Việt Nam hiện nay
Trải qua 04 năm thực hiện Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP (thay thế cho Nghị quyết cũ số 03/2015/NQ-HĐTP), Án lệ đã dần được bước vào đời sống pháp lý của Việt Nam, đóng một vai trò không thể thiếu trong hoạt động xét xử của Tòa án – giúp TAND nói chung và TAND quận Bình Thạnh nói riêng kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử. Việc các Án lệ được công bố đã góp phần khắc phục được các khiếm khuyết của pháp luật, tạo tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án.
Về số lượng, kể từ khi Nghị quyết số 03/2015 có hiệu lực cho đến nay đã có 63 bản án, quyết định được lựa chọn, phát triển thành Án lệ và được công bố. Tính trong khoảng thời gian từ ngày 15/7/2019 (ngày Nghị quyết số 04/2019 có hiệu lực) đến ngày 6/9/2022, chỉ có 29 bản án, quyết định được lựa chọn, phát triển thành Án lệ. Tính theo năm, hàng năm, TANDTC tuyển chọn, công bố Án lệ. Cụ thể như sau:
Năm Án lệ được công bố | Số lượng Án lệ được công bố |
Năm 2016 | 10 Án lệ |
Năm 2017 | 06 Án lệ |
Năm 2018 | 10 Án lệ |
Năm 2019 | 03 Án lệ |
Năm 2020 | 10 Án lệ |
Năm 2021 | 13 Án lệ |
Năm 2022 | 04 Án lệ |
Năm 2023 | 07 Án lệ |
Tổng cộng | 63 Án lệ |
Bảng 1- Thống kê 63 Án lệ trong năm 2023
(Nguồn: Trang thông tin điện tử về Án lệ, TANDTC, truy cập tại: https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle, truy cập ngày 06/4/2023)
Hiện nay với số lượng Án lệ tính tại thời điểm hiện tại là 63 Án lệ thì việc gia tăng số lượng Án lệ của TANDTC qua “ngần ấy” năm chưa thật sự tương ứng với tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế của Việt Nam. Có thể nói, tốc độ xây dựng Án lệ rất thấp. Theo số liệu của TANDTC thống kê đến ngày 12/4/2021, cả nước đã có 1.021 bản án, quyết định của các Tòa án đã viện dẫn, áp dụng Án lệ. Đối với TAND cấp tỉnh có viện dẫn Án lệ trong xét xử các vụ án là 234 bản án, quyết định. Các số liệu thống kê nêu trên minh chứng rằng Án lệ không còn mang tính lý luận nữa mà đã thực sự đi vào đời sống pháp lý thông qua các vụ án cụ thể. Mặc dù số lượng các bản án, quyết định của hai cấp Tòa án có áp dụng Án lệ chưa nhiều xong việc Án lệ được chính thức thừa nhận là một nguồn luật bổ trợ, có tính chất tham khảo giúp các Thẩm phán áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, đảm bảo các vụ án có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau được xét xử như nhau, góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử.
Theo số liệu của TANDTC thống kê đến ngày 31/12/2022, cả nước đã có 3.853 bản án, quyết định về lĩnh vực lao động của các Tòa án và trong số các BA, QĐ thì chỉ có 05 bản án lao động đã được áp dụng Án lệ 20/2018/AL về loại vụ án lao động về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc.
Đơn cử việc áp dụng Án lệ số 20/2018/AL vào hoạt động xét xử tại Tòa án trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh như sau: Bản án 14/2020/LĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của TAND quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, tại bản án nêu trên (Bản Án số 14/2020/LĐ-ST về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của TAND quận Gò Vấp là cơ quan xem xét đưa án lệ vào giải quyết tranh chấp hợp đồng lao động thử việc. Trong hoạt động xét xử, Tòa án có áp dụng Án lệ số 20/2018/AL; đối với bản án sơ thẩm thì Tòa đã thấy được một số tình tiết khá tương đồng với Án lệ, là cơ sở cho việc áp dụng Án lệ vào hoạt động xét xử. Việc áp dụng Án lệ tại bản án số 14/2020/LĐ-ST của thẩm phán được “viện dẫn” trong phần nhận định, khi mà các tình tiết của vụ án (Thư mời làm việc, không ký hợp đồng lao động) và nội dung Án lệ là có sự tương đồng điều đó là cơ sở Thẩm phán xác định quan hệ lao động giữa các bên là quan hệ hợp đồng lao động. Mặc dù án lệ 20 ít được các Toà án áp dụng, nhưng qua Bản án tại Toà án nhân dân quận Gò Vấp (cấp sơ thẩm) cho thấy việc áp dụng Án lệ là rất cần thiết vì giúp giảm thời gian công sức điều tra xét xử, án phí và lệ phí cho nguyên đơn và bị đơn… Việc áp dụng Án lệ thể hiện sự hạn chế khi vẫn còn nhiều thẩm phán do nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên ngại đưa Án lệ số 20 vào trong hoạt động xét xử tại Toà án.
Do đó, việc áp dụng án lệ hiện nay cần được Đảng và Nhà nước chỉ đạo cơ quan Toà án quan tâm nhiều hơn trong vận dụng án lệ vào hoạt động xét xử tại toà án hiện nay.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TAND HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Cho đến thời điểm hiện nay, thực tiễn hoạt động xét xử tại TAND trên cả nước nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng thì việc áp dụng án lệ vào xét xử còn rất khiêm tốn. Do đó, theo nhóm tác giả để việc áp dụng án lệ vào hoạt động xét xử tại toà án cần được đẩy mạnh và thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần đa dạng Án lệ trên các lĩnh vực. Đây là giải pháp cần thiết, vì tiếp tục phát triển Án lệ theo hướng đa dạng sẽ làm cho Án lệ trở nên phong phú và giúp ích cho việc áp dụng Án lệ trong hoạt động xét xử trở nên dễ dàng và hiệu quả. Do đó, để khắc phục tình trạng số lượng Án lệ công bố còn khá khiêm tốn chưa đủ để phục vụ cho công tác xét xử thì nên công bố thêm các Án lệ mới trên cơ sở phải đảm bảo được các yêu cầu chất lượng đặt ra. Đồng thời, khắc phục tình trạng xuất hiện các lỗ hổng trong quy định của pháp luật hoặc các vấn đề chưa được quy định thì cần tiếp tục công bố thêm Án lệ trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, ban hành luật về áp dụng Án lệ trong hoạt động xét xử tại Tòa án. Hiệu lực pháp lý của Án lệ còn thấp so với các nguồn luật khác. Do đó, cần nâng cao hiệu lực pháp lý, cụ thể như việc ban hành Luật quy định về việc áp dụng Án lệ vào hoạt động xét xử là rất cần thiết. Tuy nhiên, cần chú ý tránh tình trạng luật vừa ban hành lại phải thu hồi chỉnh sửa, bổ sung luật thì các nhà làm luật, soạn luật cần căn cứ xem xét vào các điều kiện tình hình thực tế để có thể soạn luật, làm luật cho phù hợp với điều kiện tình hình xã hội đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác soạn luật, làm luật cũng phải được chú trọng thực hiện kỹ và giám sát thường xuyên trước và sau khi luật được thông qua.
Thứ ba, cần ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết, rõ ràng, cụ thể việc thi hành và áp dụng Án lệ vào hoạt động xét xử vụ án liên quan đến lao động nói riêng và các vụ án khác nói chung. Nhưng phải đảm bảo nguyên tắc không được để các văn bản chồng chéo lên nhau, hoặc văn bản hướng dẫn thi hành luật quá nhiều dễ gây ra tình trạng hoạt động xét xử không biết nên áp dụng văn bản nào cho phù hợp với vụ án.
Thứ tư, khuyến khích các cơ quan tư pháp (đặc biệt là Tòa án) phát hiện những bản án được xem là mang tính chuẩn mực trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống phức tạp diễn ra trong thực tế. Từ đó, đề xuất nâng lên thành Án lệ, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động xét xử.
Thứ năm, các bản Án lệ cần được phân tích rõ ràng và chỉ ra những vấn đề nổi cộm của vụ án trong Án lệ. Không nên phân tích mang tính chung chung hoặc phân tích thiếu chi tiết những vấn đề trong vụ án. Như vậy sẽ gây ra áp dụng Án lệ vào thực tiễn xét xử trở nên khó khăn và gây ra nhiều bất cập “mỗi chỗ hiểu một ý” không đi đúng trọng tâm của vụ án.
Thứ sáu, cần tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề để lấy ý kiến các nhà làm luật, các chuyên gia nghiên cứu luật học đóng góp về hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật, áp dụng Án lệ vào công tác xét xử. Để từ đó các cơ quan chuyên môn có thể vận dụng, áp dụng các đề tài đó đưa các đề tài vào thực tiễn xét xử tại Tòa án.
Thứ bảy, cần đẩy mạnh, đổi mới chính sách pháp luật về phương thức đào tạo Thẩm phán. Nâng cao hiệu quả của việc áp dụng Án lệ vào quá trình giải quyết vụ án; đào tạo thẩm phán có chất lượng tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ; đạo đức nghề nghiệp được đảm bảo, chỉ có như vậy thì việc chọn lựa phân tích và nghiên cứu, đánh giá và áp dụng Án lệ trong hoạt động xét xử mới đạt được hiệu quả cao.
Kết luận: Có thể nói việc áp dụng Án lệ vào hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và của TAND tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là hoạt động rất quan trọng. Nó giúp cho các cơ quan tư pháp đặc biệt là Tòa án có thể áp dụng những trường hợp mà pháp luật hay tập quán pháp, hoặc tiền lệ pháp chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng, cụ thể để áp dụng vào hoạt động xét xử, đảm bảo nguyên tắc theo luật tố tụng. Qua việc nghiên cứu Án lệ và trong hệ thống pháp luật Anh, Mỹ thì có thể hiểu được Án lệ là một nguồn luật không thể thiếu, việc sử dụng Án lệ trong hoạt động xét xử mang lại những hiệu quả đáng kể. Mặc dù không phải là Án lệ không có những hạn chế nhưng những hạn chế đó sẽ dần được khắc phục trong quá trình áp dụng trong thực tiễn hiện nay.
Vì vậy, đã đến lúc cần thừa nhận vai trò của Án lệ để Việt Nam có một hệ thống pháp luật linh hoạt và hoàn thiện hơn. Bởi lẽ, khi áp dụng Án lệ sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Do đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo để hoạt động xét xử tại Toà án được tốt hơn, đặc biệt khi án lệ cần phải được các thẩm phán xem xét và vận dụng mang tính bắc buộc thay vì chỉ vận dụng tuỳ nghi như hiện nay trong hoạt động xét xử tại toà án./.
- Bộ Luật lao động năm 2019;
- Bộ Luật lao động năm 2012;
- Bộ Luật dân sự năm 2015;
- Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Luật tố tụng hành chính năm 2015;
- Luật tổ chức Tòa án năm 2014;
- Thông tư số 442-TTg về việc trừng trị một số tội phạm;
- Thông tư số 19-VHS về việc áp dụng luật lệ;
- Chỉ thị số 772-TATC về vấn đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc, phong kiến.
- Thông tư số 92-TC về giải thích và quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của các TAND phúc thẩm Hà Nội, Hải Phòng và Vinh;
- Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
- Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng Án lệ;
- Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng Án lệ.
[1] Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 442/TTg ngày 19-1-1955 về việc trừng trị một số tội phạm.
[2] Thông tư số 19-VHS ngày 30-6-1955 của Bộ Tư pháp về việc áp dụng luật lệ.
[3] Chỉ thị số 772-TATC, ngày 10-7-1959 của Tòa án nhân dân Tối cao về vấn đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc, phong kiến.
[4] Thông tư số 92-TC ngày 11-11-1959 của Bộ Tư pháp-TANDTC về giải thích và quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của các TAND phúc thẩm Hà Nội, Hải Phòng và Vinh.
[5] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[6] Khoản 2, Mục I, Điều 1 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012 của Tòa án nhân dân tối cao về việc phê duyệt đề án “Phát triển Án lệ của Tòa án nhân dân Tối cao”.
[7] Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.